Bản vị vàng sụp đổ

Bản vị vàng sụp đổ – Nguyên do kết thúc chế độ đến từ đâu?

Bản vị vàng sụp đổ là do đâu? Chế độ bản vị vàng được định nghĩa như thế nào? Bản vị vàng được xem là một chế độ về tiền tệ xuất hiện vào những năm 30 của thế kỷ 20. Đã từng có rất nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng chế độ này. Nhưng thời gian trôi qua, hầu hết các nước hiện này đã hủy bỏ và không còn áp dụng chế độ này. Vậy nguyên nhân bản vị vàng sụp đổ là gì? Bài viết bên dưới của sàn giao dịch Exness sẽ cung cấp đầy đủ thông tin cho bạn về chế độ này.

Bao quát về chế độ của bản vị vàng

Định nghĩa và đặc trưng của chế độ bản vị vàng

Chắc hẳn có nhiều người hiện nay vẫn chưa có hình dung cụ thể về bản vị vàng là gì? Bản vị vàng (hay còn có một cái tên khác là Gold Standard) là một hệ thống về tiền tệ mà ở chế độ đó thì vàng được xem là cốt lõi. Khi một quốc gia áp dụng chế độ bản vị vàng thì tương đương với việc giá trị về tiền tệ của quốc gia đó có sự liên kết trực tiếp với vàng, diễn đạt theo một cách khác thì vàng chính là nền tảng rót tiền cho quốc gia đó. Do đó, khi các vấn đề về mất cân bằng trong cán cân thương mại hay các khoản thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc tế xuất hiện thì vàng sẽ được xem tương đương như tiền và được sử dụng để bù đắp vào những khoản còn thiếu ấy.

Tìm hiểu về định nghĩa và đặc trưng của chế độ bản vị vàng
Tìm hiểu về định nghĩa và đặc trưng của chế độ bản vị vàng

Nói ngắn gọn thì chế độ bản vị vàng là tiêu chuẩn chính để công nhận chức năng về tiền tệ của vàng trong việc lưu thông. Vàng hoàn toàn được xem là thước đo về giá trị cho tất cả các loại tài sản khác trong chế độ bản vị vàng.

Trong khoảng thời gian chế độ bản vị vàng được áp dụng, nó đã phát triển và được các nhà kinh tế học thời đó chia ra thành 3 hình thức cụ thể như sau:

  • Bản vị về tiền vàng
  • Bản vị về vàng thỏi
  • Bản vị về hối đoái vàng

Cách hoạt động của hệ thống này là các nước sẽ đồng ý việc đổi tiền bằng giấy để lấy về một lượng vàng nhất định và cho dù hình thức loại tiền đó có như thế nào (dù tiền đúc từ vàng hay in lên trên giấy) thì người đang sở hữu tiền tệ sẽ luôn có được các quyền nhất định. Điều đặc biệt cần lưu ý và phải tuân thủ chính là các yêu cầu của tổ chức phát hành thay đổi tiền tệ chuyển thành vàng dựa trên tỷ giá hối đoái được thỏa thuận từ đầu.

Cũng dựa trên hệ thống bản vị vàng này thì các công cụ được sử dụng để tính toán kinh tế đều được thiết kế theo tiêu chuẩn nhất định để tính toán dựa vào hàm lượng vàng cùng với tỷ giá hối đoái đã được cố định một cách rất “chặt chẽ” dựa trên lượng vàng của mệnh giá đồng tiền đó.

Khi một đất nước áp dụng chế độ bản vị vàng thì khi đó vàng sẽ được xem như tiền để lưu hành và tiền giấy sẽ được sử dụng đổi trực tiếp để đổi thành vàng dựa vào giá thị trường (Chính phủ sẽ không thể can thiệp hay ép buộc việc nà)y. Lúc này thì tiền giấy sẽ đóng vai trò tương đương một tấm séc, người có được nó sẽ đc phép sở hữu một lượng vàng tùy theo số lượng tiền giấy mà họ có do cơ quan ban hành tiền đó trực tiếp quản lý.

Khi đó, các nước sử dụng chế độ bản vị vàng sẽ phải tuân theo các quy định được đặt ra cụ thể như sau:

  • Tiền tệ sẽ được niêm yết bằng vàng và thực hiện giao dịch này theo mức giá đã được quy định mà sẽ không bị giới hạn.
  • Việc xuất nhập khẩu hay lưu thông vàng sẽ được các quốc gia thực hiện một cách tự do
  • Tiền từ Ngân hàng Trung ương sẽ được sử dụng vàng để làm bảo hộ tuyệt đối

Các nhà kinh tế, doanh nhân hay các quốc gia ủng hộ chế độ này tin rằng chế độ này sẽ làm hạn chế tình trạng lạm phát vì người dân sẽ không còn sử dụng nhiều tiền mặt. Do đó mà các vấn đề về hoạt động mở rộng tín dụng sẽ bị họ phản đối vì lo ngại sẽ xảy ra tình trạng nợ xấu từ chế độ của tiền luật mang lại. 

Quá trình hình thành và phát triển của chế độ bản vị vàng

Khi nhắc đến đặc tính của vàng thì ai cũng nghĩ đến đến đó là tính ổn định, sự bền vững ít có sự biến động về giá trị nội tại và tính sẵn có của nó. Ngoài ra thì vàng được xem là dạng vật chất có thể thay cho tiền để làm tiêu chuẩn duy nhất và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nền tảng và quan trọng để trở thành một thức đo giá trị trong thương mại.Dù vậy, gần như trong quá trình phát triển của nhân loại, xem xét về thực tế thị phương tiện được sử dụng để giao dịch chính yếu đó là vàng. Hơn thế nữa thì vàng cũng được xem là loại kim loại nắm vai trò quan trọng trong chức năng tiền tệ.

Tìm hiểu về quá trình hình thành nên chế độ bản vị vàng
Tìm hiểu về quá trình hình thành nên chế độ bản vị vàng

Đối với hệ thống về song bản vị hay còn được gọi với cái tên khác là Bimetallic Standard thì vàng và bạc trong hệ thống này sẽ cùng được sử dụng tương đương tiền tệ để lưu thông. Điều này một phần là trở ngại đến việc lưu thông tiền và ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế vì xảy ra tình trạng đầu cơ tiền tệ và tiền vàng. Đây là lý do trực tiếp kiềm hãm sự phát triển kinh tế của tư bản chủ nghĩa. Vào thời kỳ đầu chủ nghĩa tư bản hình thành, khoảng thời gian mà lượng vàng khai thác được không thể cung cấp đủ yêu cầu về lưu thông của tiền tệ, lúc này bản vị vàng dần không còn đủ khả năng thuyết phục nữa.

Kéo dài mãi cho từ khi bước vào thế kỷ XXVII và chuyển sang thời kỳ đầu của thế kỷ XIX, các nước trên thế giới mới có thể có điều kiện và cơ hội để chuyển từ hai bản vị thành bản vị vàng dựa trên sự phát triển của ngành khai thác kim loại vàng. Vào thời điểm này thì Vương Quốc Anh là quốc gia có nền kinh tế phát triển và thương mại mở rộng nhất trên thế giới đã dẫn đầu việc sử dụng chế độ bản vị vàng sau khi mất một khoảng thời gian chuyển đổi khá dài kéo dài từ năm 1717 đến năm 1821. Không những vậy, mặc dù Anh đã công bố công khai việc áp dụng bản vị vàng vào năm 1816 nhưng kéo dài đến năm 1821 nó mới được xem như chính thức được áp dụng.

Nối tiếp Anh Quốc, Mỹ cũng đã tham gia vào việc thực hiện sử dụng hệ thống bản vị vàng bắt đầu từ năm 1834. Đến năm 1990 thì Mỹ đã đưa ra luật về bản vị vàng trên thực tế. Luật này xác định rằng vàng sẽ là loại kim loại duy nhất được phép dùng để đổi lấy tiền giấy và giá trị của vàng lúc này sẽ được xác định bởi hệ thống tiêu chuẩn vàng. Điều này có thể hiểu là với một ounce vàng sẽ quy đổi được thành 20,67 USD.

Bản vị vàng dần được các quốc gia áp dụng
Bản vị vàng dần được các quốc gia áp dụng

Ngày 31/5/1930, Việt Nam dựa theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương áp dụng quy định mỗi mệnh giá của một đồng bạc Đông Dương sẽ được quy đổi thành 655 mg vàng. Bắt đầu tư lúc này đồng bạc Đông Dương đã có sự chuyển sang sử dụng bản vị vàng

Hiệu quả tác động của chế độ bản vị vàng đến hệ thống của tiền tệ

Ngày nay thì chế độ bản vị vàng đã không còn nhận được sự ủng hộ từ các nhà kinh tế học và chính phủ nhưng vào thời đại mà nó được áp dụng đã nhận được sự ủng hộ rất lớn, khi đó số lượng quan điểm mà các nhà kinh tế học đưa ra để mô tả về lợi ích của chế độ này đối với tiền tệ cực kỳ nhiều.

Chế độ bản vị vàng có tác động giảm thiểu sự lạm phát nếu trong trường hợp pháp định ở một số quốc gia có thể làm gia tăng làm phát. Vậy lý do cụ thể như thế nào?

Đầu tiên phải kể đến lý do vàng là một tài sản hữu hạn. Sau khoảng thời gian rất dài để khai thác vàng nhưng con người chỉ sở hữu được chỉ khoảng 125.000 tấn. Có thể thấy việc vàng không thể “sản xuất” ra số lượng lớn như con người mong muốn, khi khai thác và sở hữu được nhiều vàng như ý muốn sẽ xuất hiện tình trạng lạm phát. 

Lý do thứ hai là vàng loại kim loại có thể đổi thành mệnh giá tiền tương đương với loại tiền và số lượng vàng đang sở hữu, điều này được các nước trên thế giới hoàn toàn chấp nhận. Đã có nhiều quan điểm được trình bày cho rằng vàng có khả năng đảm bảo chống lại “rủi ro” với chính sách về tiền tệ mà Ngân hàng Trung ương áp dụng. Dưới lý do này thì vàng hiển nhiên có chức năng ngăn lại các ruit trong đối với sự biến động tiền tệ

Chức năng giảm rủi ro lạm phát của bản vị vàng
Chức năng giảm rủi ro lạm phát của bản vị vàng

Nếu nhìn trên góc độ lý thuyết thì việc cam kết về việc duy trì khả năng thay đổi tiền thành vàng được áp dụng để tạo ra tín dụng bị giới hạn nghiêm trọng. So với hệ thống tiền tệ fiat, khi vàng được dùng để hỗ trợ tiền tệ thì chính phủ sẽ mất quyền in tiền giấy một cách tùy tiện. Trong các hoạt động kinh doanh quốc tế thì vàng mang đến sự an tâm và ổn định với sự không thay đổi với tỷ giá hối đoái do chế độ bản vị vàng này áp dụng.

Tìm thêm về một lý thuyết khác về hệ thống bản vị vàng thời kỳ cổ điển thì khi một quốc gia có sự dao động về giá cả sẽ dựa trên cơ thế tự cân bằng của thanh toán – cơ chế về dòng chảy giá cả – tiền xu vàng để hiệu chỉnh toàn bộ hoặc một phần. Quy trình cụ thể của cấu trực này như sau:

  • Bước đầu tiên của quy trình này là khi một hàng hóa nào đó giảm giá vì lý do nguồn cung tăng, sử dụng vốn có cải thiện tích cực, giá nguyên liệu đầu vào hàng hóa giảm hoặc đến từ lý do về sự cạnh tranh cùng ngành, lúc này người mua có xu hướng yêu thích hàng hóa đó hơn so với các loại hàng hóa khác. Khi tỷ giá của tiền tệ và vàng luôn ổn định thì người tiêu dùng ở bất cứ quốc gia nào đều chọn mua hàng hóa với giá rẻ nhất. Đây là lý do ở những quốc gia phát triển kinh tế cao sẽ được số lượng vàng chảy vào rất nhiều.
  • Ở thời điểm đó, đối với các nước khi được đầu tư vốn là vàng bắt buộc phải gia tăng về sự cung tiền và phải đối diện với áp lực của lạm phát để bù đắp lại sự suy giảm đã xảy ra trước đó.
  • Hơn thế nữa, khi nền kinh tế hoạt động không hiệu quả thì lượng tiền tệ lưu thông chắc chắn sẽ suy giảm. Đó đó, các nước cũng sẽ có sự suy giảm về gia cả cho đến khi có sự khôi phục về trạng thái cân bằng

Tóm lại, để có thể ngăn chặn dòng chảy của vàng ra bên ngoài thì những Ngân hàng Trung ương quyết định sẽ giúp đỡ đưa giá quay lại trạng thái cân bằng thông qua việc gia tăng lãi suất. Dựa trên lý thuyết đó, chúng ta có thể hiểu là bản vị vàng sụp đổ nhưng là ngăn chặn việc giảm đi sự lạm phát nhanh hay lạm phát cao sẽ được hạn chế một cách đáng kể.

Một số điểm yếu của chế độ bản vị vàng

Vàng là hữu hạn – Khó khăn trong việc đáp ứng nhu cầu

Nhìn theo góc độ lý thuyết, để ngăn chặn lạm phát chỉ có cách chỉ sử dụng duy nhất vàng với mục đích lưu thông và các kim loại khác hay tiền giấy tương đương cũng không thay thế được vàng.

Đây là một điều không thể thực hiện hay áp dụng được vì như phía trên từng nói qua thì vàng là hữu hạn và lượng lưu trữ trên trái đất hầu như rơi vào tình trạng cạn kiệt, bên cạnh đó các hoạt động về kinh tế trên toàn thế giới cũng không được bảo đảm trừ khi giá trị vàng tăng thêm hàng chục, hàng trăm lần.

Lượng vàng hữu hạn và dần cạn kiệt
Lượng vàng hữu hạn và dần cạn kiệt

Chế độ bản vị có thể gây ra giảm phát

Ngoài mối quan hệ giữa tiền tệ và hàm lượng vàng thì thị trường còn có thể điều tiết vốn thông qua chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ và chính sách tự do lưu chuyển vốn. Những ý kiến phản đối chế độ bản vị vàng của các nhà kinh tế học vì lo ngại hai yếu tố vừa liệt kê ra không chống lại được sự giảm phát và trạng thái suy thoái có thể xảy ra một cách bất ngờ.

Nền kinh tế sẽ gặp trở ngại khi hồi phục sau khủng hoảng

John Maynard Keynes là nhà kinh tế học có thái độ phản đối về hệ thống bản vị vàng gay gắt nhất, ông đã phát biểu rằng “với sự cứng rắng của vàng nền kinh tế khó mà có được sự linh hoạt”. Ngay từ đầu chế độ bản vị vàng cũng đã không có khả năng sẽ hình thành trên sự linh hoạt cho nguồn cung về chính sách tài khóa và tiền tệ.

Trong thời gian xảy ra khủng hoảng về kinh tế, chế độ bản vị vàng đã thành “tường thành” vây kín Ngân hàng Trung Ương và cơ quan chính phủ các nước để loay hoay đi tìm các chính sách ngăn cản khủng hoảng đó.

Sự khó khăn trong việc khổi phục kinh tế dưới chế độ bản vị vàng
Sự khó khăn trong việc khổi phục kinh tế dưới chế độ bản vị vàng

Khó khăn hơn hết là đối với các quốc gia kém phát triển và có lượng vàng thấp gây nên hạn chế trong việc phát triển nền kinh tế của các nước này. Và điều đặc biệt là vàng được chia theo tiềm lực kinh tế, ví dụ Nhật Bản là một quốc gia phát triển nhất nhì thời điểm đó thì khối lượng vàng được dự trữ ít hơn so với số lượng cần để hỗ trợ phục hồi nền kinh tế.

Các nước có sự thâm hụt về cán cân thương mại đã phải đối mặt với khoảng thời gian kinh tế bị đình lạm. Ở những nước có sự cân bằng về cán cân cũng gặp khó khăn khi phải đối diện với lạm phát và bản vị vàng không còn tác dụng khi con người không thể tạo ra được lượng vàng như mong muốn, việc phục hồi kinh tế cực kỳ khó khăn.

Nguyên nhân chế độ bản vị vàng sụp đổ là gì?

Thời kỳ vàng trở nên suy thoái

Hoa Kỳ là một trong những quốc gia áp dụng rất sớm chế độ bản vị vàng, cụ thể là vài năm 1897 thì chế độ này đã được áp dụng ở Hoa Kỳ, đây là thời kỳ mà mệnh giá USD ổn định và nền kinh tế hoa kỳ vô cùng phát triển. Tuy nhiên khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, đây là dấu mốc kết thúc chế độ bản vị vàng. Các nước tham gia chiến tranh thời điểm đó buộc phải ngừng áp dụng chế độ bản vị vàng để tập trung cho việc in tiền chi trả cho vũ khí phục vụ quân sự.

Chiến tranh kết thúc, các nước cũng có cái nhìn lại về chế độ bản vị vàng và họ thấy rằng họ không cần thiết phải niêm yết đồng tiền của quốc gia mình theo giá trị của vàng. Trên thực tế điều này sẽ gây ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế trên thế giới.

Năm 1919 các quốc gia trên thế giới kể cả Hoa Kỳ trở lại sau khi chế độ bản vị vàng đã đc thay đổi sau thế chiến. Mặc dù vậy, nhưng sự hối đoái bản vị vàng khi đó đã gây ra tình trạng giảm phát cực kỳ nghiêm trọng và số lượng người thất nghiệp tăng cao có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu

Giai đoạn cuối thời hoàng kim của vàng
Giai đoạn cuối thời hoàng kim của vàng

Khi cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra vào năm 1929 thì các quốc gia lần lượt tiến hành bãi bỏ chế độ bản vị vàng vào những năm 1930. Hệ thống bản vị vàng mà cục Dự trữ Liên bang Hoa kỳ và cơ quan chính phủ áp dụng ảnh hưởng lớn đến cuộc khủng hoảng đại suy thoái của Mỹ do bị hệ thống kiềm hãm và khó kiểm soát.

Khi vào thời kỳ đó, chính phủ Mỹ đã vật lộn và chịu áp lực trong suốt 4 năm và không thể làm bất cứ việc gì để ngăn cản cuộc đại suy thoái này. Sau thời  gian vật lộn và chờ đợi, năm 1931 Vương Quốc Anh quyết định hủy bỏ hệ thống bản vị vàng. Ngày 5/6/1931 trong lúc cuộc khủng hoảng đang bước vào giai đoạn cao trào thì lễ nhậm chức của tổng thống Franklin D.Roosevelt đã đặt dấu chấm hết cho chế độ này.

Sau khi đặt dấu chấm hết chi chế độ bản vị vàng, Cục Dự trữ Liên bang và Chính phủ Hoa Kỳ đã gỡ được một gánh nặng cực kỳ lớn đang đè lên nền kinh tế của họ. Để thay thế chế độ bản vị vàng họ đã đưa ra những chính sách tài khóa có độ phù hợp cao hơn trong việc chống lại giai đoạn khủng hoảng đang được diễn ra.

Hội nghị Bretton Woods 1994 – Thiết lập tỷ giá cố định cho đồng tiền

Bản vị vàng đã bị lãng quên cho đến khi năm 1944, sau khi cuộc chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các quốc gia tham gia thế chiến như Hoa Kỳ, Anh Quốc, Nhật Bản, Úc, Canada và các quốc gia Tây Âu đã có cuộc hội nghị gặp nhau để tiến hành thảo luận về các khoảng cần thanh toán sau khi chiến tranh kết thúc tại Woods, bang New Hampshire, Mỹ.

Nội dung thảo luận của cuộc hợp được xoay quanh 3 nội dung quan trọng là: thành lập tổ ngân hàng chung – Ngân hàng Thế giới (World Bank), thành lập quỹ chung – Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF), khôi phục chế độ bản vị vàng nhưng vàng không còn được xem là tiền tệ lưu thông chính nữa, quy định mới quy đổi mỗi ounce vàng sẽ tương đương 35 USD. Việc khôi phục lại bản vị vàng chỉ với một mục đích chính là giữ được sự duy trì ổn định cho mệnh giá đồng USD.

Đàm phán Bretton Woods
Đàm phán Bretton Woods

Dấu chấm hết của chế độ bản vị vàng

Nguyên nhân gây ra sự sụp đổ chế độ bản vị vàng đó chính là sự cố định của tỷ giá hối đoái được chính phủ áp dụng. Điều này khiến cho mối liên hệ hữu cơ giữa cung vàng và nhu cầu vàng với cung hàng hóa và nhu cầu hàng hóa trở nên rời rạc, không có liên kết.

Năm 1960 Mỹ là quốc gia sở hữu 19,4 tỷ USD về dự trữ vàng. So với Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF chỉ năm giữ 1,6 tỷ USD là một cách biệt vô cùng lớn. Nền kinh tế Mỹ bước vào giai đoạn bùng nổ, người dân đã có xu hướng mua hàng hóa nhập khẩu tăng cao và họ sử dụng đồng USD để thanh toán.

Chuyển sang năm 1970, trải qua một thập kỷ Mỹ đối diện với vấn đề lượng trữ vàng bị giảm liên tục khi tổng thống Nixon áp dụng các chính sách tiền tệ của ông, điều này đã làm cho nền kinh tế Mỹ trì trệ. Bản vị vàng mất giá trị khi Nixon điều chỉnh giá vàng xuống 38 USD/ounce và Cục Dự trữ Liên bang không được phép sử dụng vàng để mua lại đồng USD.

Năm 1971 Mỹ gặp các vấn đề khó khăn trong việc áp dụng các chính sách phát triển kinh tế vào thực tiễn, tổng thống Nixon đã đưa ra quyết định sẽ rời khỏi hệ thống Bretton Woods và để thả nổi đồng USD trên thị trường – không còn phụ thuộc vào vàng, điều này làm cho các chính sách có thể được thực hiện một cách linh hoạt và dễ dàng hơn.

Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng ở Mỹ vào năm 1971
Sự sụp đổ của chế độ bản vị vàng ở Mỹ vào năm 1971

Nguyên nhân chế độ bản vị vàng ở Hoa Kỳ kết thúc vào năm 1971 có thể đến từ việc chế độ bản vị vàng đã gây khó khăn trong việc in tiền của Mỹ cho việc tài trợ chiến tranh. Trong đó có cả cuộc chiến tranh ở Việt Nam, bên cạnh đó đồng yên Nhật rớt giá đã gây tổn thất cho hàng hóa, so với hàng hóa của Mỹ lúc đó thì hàng hóa của Nhật rẻ hơn nhiều gây ra việc nền kinh tế Hoa Kỳ đã xuất hiện nhiều sự bất ổn.

Năm 1973, Chính phủ Mỹ đã đưa ra mức định giá vàng là 42,22 USD cho mỗi ounce. Đến năm 1976, Mỹ đã hoàn toàn tách biệt đồng đô la Mỹ với vàng làm cho giá vàng có sự gia tăng nhanh chóng, rơi vào mức 124,84 USD. Từ năm 1971 đến nay, giá vàng tiêu chuẩn đã có dấu hiệu gia tăng liên tục, tăng lên nhiều hơn giảm đi. Đỉnh điểm có khi vàng đạt 2000 USD/ounce, cao hơn gấp 57 lần so với 1971.

Bản vị vàng sụp đổ, các nước đã bắt đầu tự in thêm tiền tệ cho quốc gia của mình, dẫn đến tình trạng lạm phát. Mặc dù vậy thì đây cũng là một trong những động lực để giúp cho nền kinh tế trở nên phát triển nhanh chóng hơn. Ngày nay, hệ thống bản vị vàng gần như đã hoàn toàn sụp đổ, không còn bất cứ quốc gia nào sử dụng nữa. Thay thế vào đó thì chính phủ chuyển sang dùng tiền phát định – đây chính cũng là loại tiền nhà nước bắt buộc dùng để được nhận trợ cấp, nộp thuế và thanh toán cho khoản thanh toán Chính phủ.

Tóm lại, bài viết này của Exness Hướng Dẫn đã cho chúng ta thấy việc bản vị vàng sụp đổ nguyên nhân không phải chỉ xuất phát từ một mà còn nhiều lý do khác. Chế độ này đã phải trải qua một thời kỳ hoàng kim và lợi ích của nó tác động đến nền kinh tế của thế giới ở quá khứ là điều mà chúng ta không thể phủ nhận dù bất cứ lý do nào. Mặc dù nền kinh tế thế giới đã phát triển nhanh chóng nhưng sẽ có các chính sách, chế độ về tiền tệ khác sẽ có sự thích hợp hơn. Cuối cùng, hy vọng những kiến thức được cung cấp ở bài viết này đã giúp bạn tìm hiểu rõ hơn về chế độ bản vị vàng là gì và cách vận hành hệ thống này vào giai đoạn hoàng kim của nó nhé.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *